Liên Xô với cuộc chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975) - Nhìn từ chiến tranh lạnh
Văn Ngọc Thành*
Trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, nhân dân Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ to lớn cả về vật chất lẫn
tinh thần từ Liên Xô, “người anh cả” của phe xã hội chủ nghĩa. Đó là sự thật lịch
sử đã được khẳng định. Sự giúp đỡ của Liên Xô trong cuộc chiến tranh chống Mỹ ở
Việt Nam phản ánh mối quan hệ hữu nghị, gắn bó đặc biệt giữa hai đất nước nhưng
đồng thời nó cũng phản ánh sự phức tạp của tình hình thế giới trong thời kỳ
này. Bài viết này muốn xem xét vấn đề đã được khẳng định đó trong khung cảnh cuộc
chiến tranh lạnh, bởi lẽ: Thứ nhất, Liên Xô vừa là nước giúp đỡ lớn nhất cho
nhân dân Việt Nam, vừa là nước đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa, là một trong
hai siêu cường chủ chốt của chiến tranh lạnh; và do đó, thứ hai, chiến tranh Việt
Nam là một trong những điển hình của một trong những biểu hiện của chiến tranh
lạnh mà giới nghiên cứu thường gọi là “chiến tranh đại diện” (proxy war) [13;
14]. Và do vậy, việc xem xét chính sách của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam không thể tách rời với việc xem xét âm mưu của Mỹ, cả ở cấp độ
toàn cầu.
1.Từ khi Mỹ chính thức
phát động cuộc chiến tranh lạnh (3/1947), Mỹ và Liên Xô luôn coi châu Âu là khu
vực trọng tâm chiến lược trong cuộc đấu tranh nhằm hạn chế sức mạnh và phạm vi ảnh
hưởng của đối phương. Trong bối cảnh đó, châu Á - nơi đang diễn ra những cuộc đấu
tranh giành độc lập của nhân dân các nước thuộc địa được coi là “khu vực biên
duyên” chiến lược. Tuy nhiên, cùng với sự biến đổi của tình hình quốc tế, châu
Á dần trở thành địa bàn xung đột giữa hai siêu cường Mỹ, Xô và là nơi diễn ra
những cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai hệ thống trên thế giới. Theo đó, vị trí của
bán đảo Đông Dương trong chiến lược của Mỹ và Liên Xô cũng bắt đầu có sự thay đổi.
Việt Nam từng bước trở thành địa bàn quan trọng trong các cuộc cạnh tranh quyền
lực của hai siêu cường ở châu Á. Ban đầu, ở bán đảo Đông Dương, mà trọng điểm
là Việt Nam, sự ảnh hưởng của xung đột Đông – Tây là khá mờ nhạt. Tuy nhiên,
cùng với sự leo thang của chiến tranh lạnh, sự biến đổi phức tạp của tình hình
quốc tế đã dẫn đến sự thay đổi chính sách về Đông Dương của cả Mỹ và Liên Xô.
Từ đầu năm 1950, giới cầm
quyền Mỹ đã từng bước nhận thức lại vị trí chiến lược của Việt Nam, coi đây là
chiến tuyến quan trọng để chống lại “sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản” ở
khu vực châu Á. Do vậy, Mỹ đã tiến hành can thiệp ngày càng sâu vào Việt Nam. Sự
thay đổi về chiến lược của Mỹ ở Việt Nam xuất phát từ những nguyên nhân sau: Thứ
nhất, sau thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản ở Trung Quốc, cùng với việc nước
Trung Hoa mới công khai ủng hộ cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân Việt Nam
và ảnh hưởng của thuyết “Đôminô”, giới cầm quyền Mỹ cho rằng chủ nghĩa cộng sản
sẽ như một cơn sóng lan nhanh xuống khu vực Đông Nam Á và toàn bộ châu Á. Vì vậy,
các chiến lược gia của Mỹ đã xác định Đông Dương trở thành bộ phận quan trọng
trên tuyến ngăn chặn của Mỹ ở châu Á. Họ cũng cho rằng, Đông Nam Á là khu vực
có tầm sinh tử đối với an ninh của Mỹ. Tháng 2-1950, Uỷ ban An ninh quốc gia của
Mỹ đã ra văn kiện số 64 (NSC – 64), xác định Đông Dương là khu vực then chốt của
Đông Nam Á. Bên cạnh đó, Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ cũng đã cảnh báo nếu để
cho chủ nghĩa cộng sản chinh phục khu vực này thì Mỹ sẽ phải chịu một thảm bại
chính trị to lớn mà ảnh hưởng của nó sẽ lan tràn trên khắp thế giới. Thứ hai,
cuộc chiến tranh ở Triều Tiên và cục diện quốc tế trong cuộc chiến tranh này
cũng là một nhân tố quan trọng làm thay đổi chính sách của Mỹ về Đông Dương nói
chung và Việt Nam nói riêng. Có thể nói, cuộc chiến tranh Triều Tiên đã ảnh hưởng
đến chính sách của Mỹ đối với Đông Dương dưới một hình thức gián tiếp nhưng rất
quan trọng. Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của chiến tranh Triều Tiên đối với chiến
lược của Mỹ, các nhà nghiên cứu cho rằng “những hạn chế về chính trị trong cuộc
chiến tranh Triều Tiên đã chọc tức các tổ chức quân sự của Mỹ và đã ảnh hưởng đến
những kiến nghị của họ về việc can thiệp vào Đông Dương”[9; tr. 34] và rằng “sự
dính líu của Mỹ ở Triều Tiên đã hoàn thiện việc làm thay đổi thứ tự ưu tiên của
Mỹ ở Đông Dương”[9; tr. 34]. Có thể nói, dưới tác động của những nhân tố chủ
quan và khách quan nói trên, Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung ngày
càng chiếm vị trí quan trọng trong chiến lược của Mỹ, mặc dù nơi đây vẫn không
được coi là khu vực trung tâm mà chỉ là vùng “ngoại vi” của chiến tranh lạnh.
Cùng với sự thay đổi về
chiến lược Đông Dương của Mỹ, các nhà lãnh đạo Liên Xô cũng dần nhận thức được
tầm quan trọng của Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng, trong việc mở rộng
phạm vi ảnh hưởng của mình ở châu Á. Do vậy, Liên Xô đã đi từ chỗ không can dự
vào Đông Dương đến chỗ thể hiện sự ủng hộ của mình đối với Việt Nam trong cuộc
đấu tranh chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong những
năm 50, Liên Xô đã thông qua Trung Quốc để ủng hộ Việt Nam và từ những năm 60,
Liên Xô đã có sự viện trợ trực tiếp về kinh tế và quân sự cho Việt Nam. Tuy
nhiên, cũng giống như Mỹ, các nhà lãnh đạo Liên Xô vẫn không coi Việt Nam là
khu vực trọng điểm trong chiến lược của mình.
Như vậy, chúng ta thấy
trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, bán đảo Đông Dương đều không được xác định
là trọng tâm trong chiến lược của Mỹ và Liên Xô. So với châu Âu thì đây chỉ là
khu vực “biên duyên chiến lược”, là nơi có vị trí thứ yếu trong chiến lược
chung của hai siêu cường. Tuy nhiên bán đảo Đông Dương lại là một trong những
nơi diễn ra cuộc “chiến tranh nóng” hết sức quyết liệt, tàn khốc và đẫm máu
trong chiến tranh lạnh giữa hai hệ thống trên thế giới. Điều này phản ánh một đặc
điểm quan trọng của chiến tranh lạnh, đó là các cuộc xung đột quân sự thường
phát sinh ở những khu vực không trực tiếp gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia của
hai siêu cường. Nó chứng minh tính chất vì lợi ích riêng trong đấu tranh chính
trị quốc tế của các nước lớn.
2. Chiến tranh Việt Nam là
cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ - một nội dung cơ
bản của quyền dân tộc. Tuy nhiên, quá trình phát triển của cuộc chiến cho thấy
nó còn mang vóc dáng của cuộc xung đột quốc tế, trở thành chiến trường của những
cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai siêu cường. Điều này liên quan trực tiếp đến những
tính toán chiến lược của Mỹ, Xô và sự tham gia của hai nước lớn vào các cuộc
chiến tranh này.
Trong cuộc chiến tranh Việt
Nam sự tham gia của Mỹ trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, từ không can dự đến
can thiệp gián tiếp thông qua sự ủng hộ đối với Pháp và chính phủ Bảo Đại, rồi
đến đưa quân xâm lược trực tiếp. Trong khi đó Liên Xô lại trực tiếp và công
khai sự ủng hộ đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong cuộc đấu tranh chống Mỹ.
Sự khác nhau cơ bản này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như về bối cảnh
của cuộc chiến tranh, về diễn biến của tình hình quốc tế qua từng giai đoạn.
Trong thời gian diễn ra
Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ đã lên tiếng phản đối chính sách thực dân cũ của
Pháp ở Việt Nam, thể hiện sự ủng hộ đối với Việt Minh trong cuộc đấu tranh
giành độc lập từ tay thực dân Pháp và đưa ra chủ trương “thác quản quốc tế”
trong vấn đề Đông Dương. Tiếp đó, do phải tranh thủ đồng minh để chống lai Liên
Xô, trong những năm đầu sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Chính phủ
Mỹ đã tỏ thái độ không can thiệp vào Đông Dương. Tuy nhiên, từ cuối năm 1949,
sau sự ra đời của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, nhất là sau khi chiến tranh
Triều Tiên bùng nổ (6-1950), thái độ của Mỹ đối với Đông Dương và Việt Nam đã
có sự thay đổi mang tính bước ngoặt. Từ chỗ không can thiệp, Mỹ bắt đầu viện trợ
cho Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Tháng 4-1950, Tổng thống Mỹ Truman
đã thông qua bản ghi nhớ mang ký hiệu NSC 64 khẳng định sự cần thiết trong việc
viện trợ cho Đông Dương nhằm “chống cộng sản ở Đông Nam Á vì thất bại của thế
giới “tự do” ở đây sẽ làm nguy hại đến tương quan lực lượng của hai phe ở Đông
Nam Á”[7; tr. 185]. Tiếp đó, tháng 12-1950, một hiệp định viện trợ được ký ở
Sài Gòn giữa đại diện Mỹ, Pháp và Chính phủ Bảo Đại (Việt Nam) đã “đánh dấu sự
bắt đầu Mỹ chính thức dính líu vào Việt Nam”[7; tr. 187]. Sang năm 1951, viện
trợ của Mỹ cho Đông Dương đã lên tới 30,5 triệu đôla (gấp 3 lần so với năm
1950), đưa Việt Nam chiếm vị trí quan trọng thứ hai sau bán đảo Triều Tiên
trong chương trình viện trợ quân sự cho nước ngoài của Mỹ. Việc Mỹ bắt đầu thay
đổi thái độ đối với Đông Dương và tích cực ủng hộ Pháp trong cuộc chiến tranh
Việt Nam xuất phát từ nhiều lý do, trong đó có liên quan trực tiếp đến sự tính
toán chiến lược của Mỹ ở Tây Âu. Các nhà nghiên cứu cho rằng “trong khung cảnh
chiến lược đã thay đổi nhiều của năm 1950, việc ủng hộ Pháp ở Đông Dương được
xem là điều thiết yếu cho an ninh ở Tây Âu. Những khoản chi tiêu lớn cho chiến
tranh Việt Nam đã làm chậm quá trình phục hồi kinh tế cũng như quá trình tiến tới
một mức độ ổn định chính trị cần thiết để chống chủ nghĩa cộng sản… Những đề
nghị ban đầu của họ (Mỹ) là yêu cầu Pháp đóng góp một số quân lớn và đảm bảo
tái vũ trang cho Tây Đức, đây chính là những việc làm mà Pháp rất có thể chống
lại. Chính quyền Mỹ vì thế sợ rằng nếu họ không tích cực đáp ứng yêu cầu của đồng
minh xin giúp đỡ ở Đông Dương, Pháp có thể không chịu hợp tác với kế hoạch chiến
lược bảo vệ Tây Âu của mình”[4; tr.16]. Hơn nữa, “việc Mỹ sẵn sàng ủng hộ Pháp ở
Đông Dương còn phản ánh một tâm trạng ngày càng lo ngại cho tương lai của Đông
Nam Á. Cuộc chiến Đông Dương và những cuộc nổi dậy ở Mianma, Malaisia và
Indonesia đều có nguồn gốc bản xứ, nhưng trong một thế giới đã phân cực thì chỉ
riêng việc tồn tại các cuộc cách mạng và xu hướng tả khuynh của chúng đã làm cho
người Mỹ tin rằng Đông Nam Á là mục tiêu của một cuộc tấn công phối hợp do
Kremli chỉ huy”[4; tr. 16]. Như vậy, bên cạnh sự ảnh hưởng của thuyết “Đôminô”
về mối đe doạ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á, sự can thiệp của Mỹ vào Việt
Nam còn nằm trong mục tiêu lôi kéo đồng minh trong cuộc đấu tranh với Liên Xô ở
Tây Âu - khu vực trọng tâm chiến lược của Mỹ trong chiến tranh lạnh. Tuy nhiên,
đầu những năm 50 của thế kỷ XX, sự tham gia của Mỹ cũng chỉ mới dừng lại ở hình
thức gián tiếp thông qua sự ủng hộ đối với đồng minh của mình. Điều này xuất
phát từ những nguyên do sau đây: Thứ nhất, mặc dù đã từng bước xác định vị trí
quan trọng của Đông Dương trong chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Đông
Nam Á của mình, nhưng Mỹ vẫn coi đây là “khu vực biên duyên” trong chiến lược
toàn cầu thời kỳ chiến tranh lạnh; Thứ hai, những bài học kinh nghiệm của chiến
tranh Triều Tiên đã khiến Mỹ lo ngại xảy ra trường hợp tương tự là Trung Quốc sẽ
đưa quân sang Việt Nam như trong chiến tranh Triều Tiên và có thể khiến Mỹ sa lầy
trong cuộc chiến này;Thứ ba, Mỹ chưa tìm được “ngọn cờ hợp pháp” và chưa thể
tranh thủ được sự ủng hộ của đồng minh để có thể đưa quân trực tiếp đến Việt
Nam.
Từ đầu những năm 60 của
thế kỷ XX, Mỹ bắt đầu đưa quân trực tiếp can thiệp vào Việt Nam. Việc Mỹ trực
tiếp đưa quân can thiệp vào Việt Nam có thể được giải thích bởi những nguyên
nhân sau: Thứ nhất, trước sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Namtừ cuối
những năm 50, Mỹ đã nhận thấy nếu không có sự giúp đỡ của Mỹ thì chính quyền miền
Nam Việt Nam do Mỹ dựng lên sẽ không thể tồn tại được lâu và chủ nghĩa cộng sản
sẽ thắng thế trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam; Thứ hai, cùng với sự leo thang của
chiến tranh lạnh, quan hệ Mỹ – Xô ngày càng căng thẳng. Vì vậy, việc Liên Xô
công khai ủng hộ Việt Nam đã khiến Mỹ càng quyết tâm hơn trong việc biến miền
Nam Việt Nam thành bàn đạp để tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản, nhằm ngăn chặn
“Đông Nam Á hoá đỏ”.
Như vậy, trước sự biến đổi
phức tạp của tình hình quốc tế, Mỹ đã từng bước thay đổi chính sách về Đông Dương
và can thiệp trực tiếp vào Việt Nam. Sự leo thang trong chính sách của Mỹ ở Việt
Nam đã làm cho màu sắc chiến tranh lạnh trong chiến tranh Việt Nam ngày càng
gia tăng.
Sự tham gia của Liên Xô
vào chiến tranh Việt Nam đã trải qua các giai đoạn từ gián tiếp ủng hộ thông
qua đồng minh của mình đến công khai và trực tiếp giúp đỡ nhân dân Việt Nam cả
về kinh tế và quân sự để chống Mỹ. Quá trình tham gia của Liên Xô vào chiến
tranh Việt Nam như trên có thể được giải thích từ những lý do sau: Thứ nhất,
trong những năm 50 của thế kỷ XX, khi Mỹ còn chưa trực tiếp can thiệp vào Việt
Nam thì Liên Xô cũng chưa công khai ủng hộ Việt Nam. Điều này là do Liên Xô lo
ngại nếu công khai ủng hộ Việt Nam thì sẽ kéo theo sự tham gia của Mỹ như trong
chiến tranh Triều Tiên. Hơn nữa, giai đoạn này, quan hệ giữa Liên Xô và Trung
Quốc đang diễn ra tốt đẹp nên Liên Xô có thể thông qua Trung Quốc để ủng hộ Việt
Nam; Thứ hai, cùng với việc gia tăng sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam, Liên Xô
cũng tỏ rõ thái độ ủng hộ Việt Nam nhằm thể hiện lập trường quan điểm của mình
trong cuộc cạnh tranh chiến lược với Mỹ. Thứ ba, trong chiến tranh Việt Nam,
khi Mỹ tham chiến dưới danh nghĩa lợi ích quốc gia của Mỹ thì Liên Xô cũng có
lý do để công khai sự ủng hộ của mình. Việc gia tăng mức độ can thiệp của cả Mỹ
và Liên Xô vào chiến tranh Việt Nam trong lúc chiến tranh lạnh đang được đẩy
lên mức cao nhất là minh chứng cho nhận định trên, đồng thời nó cũng làm cho cuộc
chiến ở Việt Nam diễn ra ngày càng quyết liệt và in đậm dấu ấn của xung đột
Đông – Tây. Tính chất “quốc tế” của chiến tranh Việt Nam vì thế ngày càng rõ
nét.
Như vậy, sự tham gia của
Mỹ và Liên Xô trong chiến tranh Việt Nam đã phản ánh mối quan hệ phức tạp giữa
hai siêu cường trong chiến tranh lạnh. Sự tham gia của Mỹ và Liên Xô là nhân tố
có tác động sâu sắc đến diễn biến và tính chất của các cuộc chiến tranh này.
Do vị trí chiến lược của
bán đảo Đông Dương trong chiến lược của Mỹ và Liên Xô thời kỳ chiến tranh lạnh
và sự tham gia của Mỹ, Xô trong chiến tranh Việt Nam, cho nên phương thức xử lý
xung đột của Liên Xô trong cuộc chiến này là:
Thứ nhất, hết sức tránh sự
đối đầu quân sự trực tiếp giữa hai siêu cường. Mặc dầu có sự tham gia của Mỹ và
cuộc chiến tranh rất gay go, quyết liệt, nhưng Liên Xô vẫn tuân thủ “luật chơi
chung” là hạn chế và hết sức tránh một cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Liên Xô. Cả
Mỹ và Liên Xô đều coi đây là nguyên tắc cao nhất trong xử lý mối quan hệ giữa
hai bên trong các cuộc chiến tranh này.
Trong chiến tranh Việt
Nam, chúng ta thấy sự dính líu của Mỹ là cả một quá trình đi từ không can dự đến
ủng hộ đồng minh và cao nhất là trực tiếp đưa quân xâm lược. Vì vậy, tương tự với
quá trình can dự của Mỹ, sự tham gia của Liên Xô vào chiến tranh Việt Nam cũng
đi từ chỗ gián tiếp ủng hộ đến công khai viện trợ về kinh tế, vũ khí, và cố vấn
quân sự. Mức độ can dự ngày càng sâu của Liên Xô diễn ra tương đồng với quá
trình mở rộng chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đã cho thấy tính chất quyết liệt
trong việc cạnh tranh quyền lực của hai siêu cường và hai khối Đông – Tây trong
cuộc chiến này. Tuy nhiên, trong suốt thời gian diễn ra chiến tranh Việt Nam, cả
Mỹ và Liên Xô đều hạn chế đến mức thấp nhất những hành động có thể gây ra sự
kích động khiến cho đối phương có thể can thiệp sâu hơn và luôn thông qua con
đường ngoại giao và tiếp xúc bí mật để nhằm tìm ra một giải pháp hoà bình cho
cuộc chiến. Điều này một mặt cho thấy thế cân bằng lực lượng giữa hai cường quốc
và sự phức tạp của tình hình quốc tế trong chiến tranh lạnh, mặt khác đã thể hiện
“sự khác biệt cơ bản giữa chiến tranh lạnh và các cuộc tranh giành khác giữa
các siêu cường trong lịch sử là trong chiến tranh lạnh có cả những vấn đề về
nguyên tắc chứ không chỉ về quyền lực”[2; tr. 142]. Đồng thời, đó cũng là
nguyên nhân khiến cho chiến tranh Việt Nam mặc dù diễn ra rất gay go, quyết liệt,
nhưng xét dưới góc độ xung đột quốc tế lại là những cuộc chiến tranh hạn chế.
Thứ hai, quá trình và mức
độ tham gia cùng với cách thức xử lý xung đột Đông – Tây giữa Mỹ và Liên Xô
trong chiến tranh Việt Nam cho chúng ta thấy phương thức xử lý xung đột Mỹ – Xô
trong hai cuộc chiến tranh này là hai siêu cường luôn đặt lợi ích quốc gia, lợi
ích của bản thân lên trên sự đối đầu về ý thức hệ.
Như đã phân tích, mặc dù
đã xác định Đông Dương là trọng điểm trong việc ngăn chặn “sự bành trướng” của
chủ nghĩa cộng sản ở khu vực Đông Nam Á, nhưng trong thời gian đầu Mỹ tỏ ra thận
trọng và dè dặt khi quyết định tham gia vào cuộc chiến. Phía Liên Xô cũng có những
hành động tương tự. Mặc dù ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong việc tiến
hành thống nhất đất nước, nhưng Liên Xô cũng không vì sự thắng thế của chủ
nghĩa cộng sản mà trực tiếp đối đầu với Mỹ ở Việt Nam.
Như vậy, chúng ta thấy cả
Mỹ và Liên Xô đều không vì sự đối đầu về ý thức hệ và mục tiêu mở rộng ảnh hưởng
của mình mà đẩy cuộc chiến lên đến mức có thể ảnh hưởng đến lợi ích của quốc
gia. Điều này giải thích vì sao các cuộc “chiến tranh nóng” trong thời kỳ chiến
tranh lạnh lại được giải quyết thông qua con đường hoà bình với sự thỏa thuận của
các siêu cường.
Như đã phân tích, chiến
tranh Việt Nam là cuộc đấu tranh nhằm thống nhất đất nước. Tuy nhiên, cuộc chiến
này lại diễn ra trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh, nên sự ảnh hưởng của chiến
tranh lạnh và đối kháng Đông – Tây, nhất là quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô đã có
tác động không nhỏ đến diễn biến và tính chất của cuộc chiến tranh này.
Xuất phát điểm của chiến
tranh Việt Nam là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, bảo vệ nền độc lập
dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Đó hoàn toàn là cuộc đấu
tranh vì quyền lợi dân tộc của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng của
chiến tranh lạnh, sự có mặt của quân đội Mỹ cùng đồng minh và cuộc đấu tranh chống
Mỹ của Liên Xô và Trung Quốc đã làm cho tình hình chiến sự trên chiến trường Việt
Nam trở nên phức tạp. Chính sự hiện diện của lực lượng quân sự nước ngoài, việc
xử lý quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô trong các cuộc chiến này đã làm cho chiến
tranh Việt Nam ở vào thế giằng co, kéo dài và diễn biến hết sức phức tạp. Xung
đột ở Việt Nam cũng vì thế đã trở thành những cuộc xung đột quốc tế, là sự đối
đầu căng thẳng giữa hai siêu cường và hai khối Đông – Tây. Vì vậy, xét dưới góc
độ xung đột quốc tế, nếu như chiến tranh Triều Tiên là “chỗ vỡ cuối cùng” của
những xung đột Mỹ – Xô trong thời gian đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai thì
chiến tranh Việt Nam cũng có thể được coi là kết quả của những mâu thuẫn đã khá
đầy đủ và nguy cơ chiến tranh thế giới thứ ba đã nhiều lần cận kề giữa hai khối
từ khủng hoảng Berlin, Trung Đông, Trung Quốc đến Cuba...
Ngoài ra, sự phức tạp
trong quan hệ quốc tế, nhất là quan hệ Mỹ – Xô còn là nhân tố có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến sự phát triển về phạm vi, quy mô của chiến tranh Việt Nam. Xuất phát
chính sách kìm chế lẫn nhau trong quan hệ giữa Mỹ và Liên Xô, từ việc đặt lợi
ích quốc gia lên trên sự đối đầu về ý thức hệ của Mỹ và Liên Xô, hai bên đã đi
đến việc tìm ra giải pháp hoà bình nhằm chấm dứt sự xung đột trên bán đảo đảo
Đông Dương vào năm 1973. Sự kìm chế lẫn nhau giữa Mỹ và Liên Xô cũng đã tạo ra
thế cân bằng lực lượng ở Việt Nam. Đó là yếu tố quan trọng hạn chế việc mở rộng
quy mô của các cuộc chiến tranh này. Do vậy, mặc dù chiến tranh Việt Nam diễn
ra rất gay go, quyết liệt, nhưng dưới góc độ xung đột quốc tế thì đây đều là những
cuộc chiến có quy mô hạn chế.
3. Như vậy, Chiến tranh
Việt Nam có những điểm cơ bản là chịu sự chi phối mạnh mẽ của quan hệ đối đầu
Đông – Tây, nhất là quan hệ Mỹ – Xô trong chiến tranh lạnh, là cuộc “chiến
tranh nóng” – một hình thức xung đột trong chiến tranh lạnh.
Sự tham gia của Liên Xô
trong chiến tranh Việt Nam có thể được giải thích bởi nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó có cả sự cạnh tranh quyết liệt giữa hai siêu cường Xô – Mỹ ở những
nơi có tầm quan trọng đối với việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình. Dù ở góc
độ nào, dù gián tiếp hay trực tiếp, dù bí mật hay công khai thì sự tham gia này
cũng là nhân tố có tác động mạnh mẽ đến quy mô, diễn biến và tính chất của cuộc
chiến. Chiến tranh Việt Nam là cuộc “chiến tranh nóng” Đông – Tây trong chiến
tranh lạnh. Đây là cuộc đấu tranh nhằm thống nhất đất nước của nhân dân Việt
Nam, là công việc nội bộ của Việt Nam. Tuy nhiên, xuất phát từ vị trí chiến lược
của bán đảo Đông Dương và do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh lạnh, nên sự tham
gia của Mỹ và Liên Xô đã phản ánh diễn biến của quan hệ quốc tế trong hai cuộc
chiến tranh này.
Trong chiến tranh Việt
Nam, Liên Xô đã tuân thủ những nguyên tắc, “luật chơi” của cuộc chiến tranh lạnh.
Vấn đề là, những tính toán chiến lược của Liên Xô đối với Mỹ trong cuộc chiến
tranh này có sự trùng hợp lợi ích đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam. Sự trùng hợp này ít nhất cũng được thể hiện rõ ở những phương diện sau: Thứ
nhất, kẻ thù lớn nhất của Liên Xô (với tư cách là một bên của cuộc chiến tranh
lạnh) cũng là kẻ thù lớn nhất của dân tộc Việt Nam (với tư cách là một quốc gia
bảo vệ nền độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ). Do đó, dưới góc độ của chiến
tranh lạnh thì mối quan hệ giữa Liên Xô với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân
dân Việt Nam được xây dựng trên cơ sở “hai bên cùng có lợi”. Thứ hai, nếu quan
niệm chiến tranh lạnh là một cuộc chiến ý thức hệ thì cả hai nước Việt – Xô đều
có chung lý tưởng, trong cùng một “phe”. Liên Xô, với tư cách là quốc gia đứng
đầu của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, ngoài lợi ích của một “siêu cường”
còn có trách nhiệm giúp đỡ cho Việt Nam – một quốc gia luôn tỏ ra kiên định với
con đường chủ nghĩa xã hội và có mối quan hệ thủy chung với đất nước Xô Viết.
Đây là những tiền đề quan trọng của mối quan hệ hữu nghị Việt – Xô thời kỳ này.
Đồng thời, lịch sử của mối quan hệ Việt – Xô tự thân nó cũng là một cơ sở vững
chắc của mối quan hệ Việt - Nga ngày nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bruce. W.Jentleson, Chính sách
đối ngoại của Hoa Kỳ: Động cơ của sự lựa chọn trong thế kỷ XXI (Linh Lan, Yên
Hương… dịch), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
2. Lê Vinh Danh, Chính sách công của
Hoa Kỳ giai đoạn 1935 – 2001, NXB Thống kê, Hà Nội, 2001.
3. George. C.Herring, Cuộc chiến
tranh dài ngày nhất của nước Mỹ (Lê Phương Thuý dịch), NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội 1998.
4. Lý Kiện, Ngọn lửa chiến tranh
lạnh, tập 1, NXB Thanh niên, 2002.
5. Mộ Kiệt, 7
cuộc đàm phán siêu cấp, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội 2006.
6. Lưu Văn Lợi – Nguyễn Hồng Thạch,
Pháp tái chiếm Đông Dương và chiến tranh lạnh, NXB Công an nhân dân.
7. Trương Tiểu Minh, Chiến tranh
lạnh và di sản của nó, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002.
8. Pitơ A.Pulơ, Nước Mỹ và Đông
Dương từ Rudơven đến Níchxơn,(Vũ Bách Hợp dịch), NXB Thông tin lý luận, Hà Nội
1986.
9. Ilya V.Gaiduk, Liên Bang Xô Viết và
chiến tranh Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 1998.
10. Walter LaFeber, The War for Both
Asia and Europe (1950-1951) inAmerica, Russia, and the cold war 1945 - 2002,
McGraw-Hill Companies, 9 ed., December 2002.
11. Friedman, Norman, The Fifty-Year
War: Conflict and Strategy in the Cold War, Naval Institute Press 2007.
12. Robert W. Clawson (ed.): East West
rivalry in the Third World,Wilmington 1986 (Scott L. Bills: The world deployed:
US and Soviet military intervention and proxy wars in the Third World since
1945., pp. 77-101).
13. Chris Loveman,Assessing the
Phenomeon of Proxy Intervention. From Journal of Conflict, Security and
Development, edition 2.3, Routledge 2002, pp. 30–48.
* PGS. TS Khoa Lịch Sử - Đại học Sư phạm Hà Nội.
BÌNH LUẬN (0)